Về làm dâu gia đình được sáu năm, sinh ba cháu nhỏ. Năm 1972 anh chị được nhà nước cấp căn nhà vùng ven đô nên đành phải xin bố mẹ cho ra riêng.
Như mọi người, gia đình nàng cũng rơi vào thảm cảnh. Khổ sở vì phải lo miếng cơm manh áo. Từ “tiểu thơ nàng trở thành con cò lặn lội bờ sông”. Bươn chải đủ cách hầu đủ nuôi ba con với một chồng!
Biếu mẹ chiếc nón bài thơ, mẹ cất nón để dành
Và nàng vô tình học đựơc nghề chằm nón lá từ bà hàng xóm. Nhờ vậy, nàng được có trong tay chiếc “cần câu” hầu kiếm cho cả nhà bữa cháo bữa rau. Cho các con còn có cơ hội được tiếp tục cắp sách đến trường, mót nhặt vài ba “cái chữ”.
Tối tăm mặt mũi vì sinh kế, nên lâu lâu mới có dịp ghé thăm bố mẹ chồng.
Một lần đi mua vật liệu làm nón. Ghé lại nhà, thấy mẹ chồng cũng vừa về tới. Nhìn bà đội chiếc nón lá sút vành rách bươm, nàng thấy xót xa trong lòng!
Ba ngày sau, nàng mang xuống biếu bà cái nón lá bài thơ, y chang của xứ Huế, nhưng do chính tay nàng làm. Bà cụ mừng quá, nhìn săm soi một hồi, gật gù tỏ vẻ ưng ý.
Nàng bảo mẹ lấy quai nón cũ đưa con thay cho. Bà cụ cầm vào trong buồng. Nghe tiếng sột sọt vọng ra. Sau đó, tiếng chân bà lên lầu.
Thấy bà trở xuống tay không. Nàng hỏi bà nón đâu rồi?
Bà bảo: – Mẹ vừa bao lại, mang lên gác cất để dành. Nón cũ còn dùng được, chừng nào hết xài, tao sẽ đội nón mới. Công lao tụi bay bỏ ra, tỉ mỉ mấy ngày trời mới làm được chiếc nón mới đẹp thế, phải không?
Nghe bà nói vậy, nàng bảo: – Mẹ cứ lấy ra đi, mai mốt hư, con làm cái khác biếu mẹ. Ai đời, con châm nón bán cho người ta, để mẹ già phải đội chiếc nón tơi tả thế kia!
Nói mãi nhưng bà vẫn không đổi ý. Cuối cùng nàng giả bộ “nói lẫy”: – Vậy mẹ đưa lại, con đem bán. Bao giờ nón cũ hết xài, con sẽ mang nón mới xuống đổi cho.
Đang vui, tự nhiên mặt bà xụ xuống, cặp mắt đỏ hoe, nhìn lên gác như muốn khóc! Nàng biết mình lỡ lời bèn xin lỗi mẹ.
Bà chẳng nói chẳng rằng, bỏ vào phòng nằm. Khi chào ra về, bà cũng không thèm quay mặt ra. Biết bà giận, nàng hối hận lắm!
Con biếu nàng cái bếp, nàng cũng để dành
Gần bốn mươi năm sau, chuyện đó đã đi vào quên lãng. Cho đến một ngày đầu năm 2013, con nàng tới hỏi:
– Cái bếp mua cho mẹ cả năm nay sao mẹ không mang ra xài? Cái gì cũng cất kỹ, toàn dùng những thứ mà – như người khác – họ đã bỏ vô thùng rác từ lâu rồi. Rõ số khổ!
Nàng giải thích: -Thời buổi khó khăn, cái gì còn dùng được, mẹ cứ tận dụng, đỡ tốn kém cho các con đồng nào hay đồng nấy. “Nó” tuy cũ nhưng chẳng có chi trở ngại. Cơm canh nấu vẫn chín đó thôi.
– Vậy con lấy bếp lại để cho người khác nghe?
Nét mặt nàng bỗng xụ xuống y như bà cụ mẹ chồng ngày xưa, khi nghe nàng nói đòi lại chiếc nón. Nhưng không chỉ giống đôi mắt đỏ hoe rướm lệ, mà nàng còn bật khóc…, khóc tức tưởi…! Chồng, con xúm lại vỗ về, an ủi mãi mới tạm nguôi.
Vài ngày sau, nàng kể: Lúc đó bị chạm tự ái, tủi thân vô cùng. Mình cho chúng, lo cho chúng bằng cả cuộc đời.
Nay về già, chúng biếu, tặng (hay gọi là cho cũng được) thứ gì, đều phải tuân theo sự “chỉ đạo”. Nếu không làm như ý, chúng đòi lại. Hỏi sao chẳng đau lòng?
Nhớ lại câu chuyện chiếc nón xưa: Con xin lỗi mẹ
Đêm ấy trằn trọc khó ngủ, ngồi bó gối thở dài, bỗng chợt nhớ lại câu chuyện chiếc nón ngày xưa. Mình cũng có những lời nói tương tự với Mẹ chồng.
Mặc dù không ác ý, nhưng cũng đã phạm sai lầm, vì vô tình gieo nhân xấu. Và hôm nay, hậu quả được lập lại “y khuôn” cũng chỉ là lẽ đương nhiên.
Ông bà dưới quê thường nói “Đời xưa quả báo thì chầy. Đời nay quả báo như dây nhãn tiền”.
Mình nghiệm ra: “Lỗi tại Ta” và cảm thấy nhẹ nhõm, bèn lại Bàn thờ, thắp nén nhang, khấn thầm xin lỗi trước di ảnh của Bà:
“Bởi chiếc nón lá rách, con đã hơn một lần làm cho Mẹ đau khổ, như con vừa trải qua. Nay thì con đã hiểu. Cúi xin Mẹ niệm tình tha thứ!
Thái An biên tập